mardi 13 novembre 2012

Tập san Sử Địa với chủ đề Hoàng Sa-Trường Sa

Tập san Sử Địa với chủ đề Hoàng Sa-Trường Sa

Nguyễn Ngọc Chính

Sử Địa là một tập san khảo cứu, sưu tầm về sử ký và địa lý Việt Nam do một nhóm giáo sư, sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn chủ trương. Báo được phát hành 3 tháng một kỳ dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Số đầu tiên phát hành năm 1966 và kéo dài cho đến ngày Sài Gòn thất thủ. Tổng cộng có 29 số, trong đó số cuối cùng có chuyên đề Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Trung Cộng lấn chiếm Hoàng Sa ngày 19/1/1974. 

(Xem thêm bài viết Báo chí thời VNCH (3) tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/11/bao-chi-thoi-vnch-3.html)

Tập san Sử Địa số 29

Nguyễn Nhã, người đứng đầu Ban trị sự Tạp chí Sử Địa, đã cung cấp một số thông tin và luận cứ trong bài viết Thử đặt vấn đề Hoàng Sa, được coi như lời nói đầu trong tập san chuyên đề số 29:

“Người Trung Hoa đang cố gắng tạo hỏa mù về Hoàng Sa để dư luận thế giới lầm tưởng rằng quần đảo Hoàng Sa chưa rõ ràng thuộc về nước nào, nên các quốc gia đã tranh chấp nhau, để rồi kẻ mạnh đã dùng sức mạnh để thắng. Thật ra, việc Việt Nam hành sử chủ quyền tại Hoàng Sa đã quá lâu và tiếp tục qua nhiều thế kỷ trước khi người Pháp đến đô hộ Việt Nam”.

Họ đã lợi dụng tình trạng Việt Nam bị Pháp đô hộ, chính quyền Pháp đã lơ là trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa cũng như tình trạng người Việt bất hòa để dần dần lấn chiếm. Các nhà báo pháp Henri Cucherousset, Alexix Elie Lacombe…vào thập niên 30 của thế kỉ XX đã vạch ra những sai lầm, âm mưu mờ ám của toàn quyền Đông Dương, dung túng việc xâm phạm chủ quyền của người Trung Hoa ở Hoàng Sa.

“Chính tạp chí ‘Eveil Economique de l' Indochine’ trong nhiều số liên tiếp đề cập đến Hoàng Sa, nhứt là số 741 (12/6/1932) đã đăng tải bức thư của Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier gửi cho Tổng trưởng Thuộc Địa ở chính quốc. Bức thư này đã tiết lộ sự thực trắng trợn chính quyền Pháp ở Đông Dương khi ấy đã cố ý lặng thinh, không phản ứng trước vụ các tàu của Trung Hoa vào năm 1909 đã đổ bộ, bắn đại bác, xâm phạm lãnh thổ mà họ biết chắc rõ đã thuộc về Việt Nam từ lâu qua sử sách hay thực tế. Chính quyền Pháp khi ấy đã nói rằng họ muốn chờ một lúc khác thuận tiện cho người Pháp hơn để lên tiếng và hơn nữa ‘Hoàng Sa có thể được dùng làm món hàng trao đổi trong các vụ thương lượng về nhượng địa với Trung Hoa’.

Vì việc tiết lộ bức thư nói trên mà tòa soạn báo Eveil Economique de l'Indochine đã bị dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm để tịch thu tài liệu về Hoàng Sa. Cũng trên tờ báo này, ông Alexix Elie Lacombe đã khen mỉa mai rằng Toàn quyền Đông Dương đã khéo “ru ngủ” được Bộ Thuộc Địa Pháp hầu dẹp qua một bên vụ Hoàng Sa khi Tổng Đốc Quảng Châu đã lên tiếng dành chủ quyền Hoàng Sa năm 1907.

Năm 1909, tàu Trung Hoa đã hai lần đến Hoàng Sa vào tháng 4 và tháng 6. Trong lần thứ 2, họ đã cắm cờ Trung Hoa và bắn 21 phát súng. Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu có thư về Pháp báo cáo, nêu sự kiện xâm phạm chủ quyền nhưng chính quyền Pháp khi ấy lờ đi.

Nguyễn Nhã viết tiếp: “Thấy người Pháp làm ngơ, người Trung Hoa đã làm tới, ngày 30/4/1921, chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông đã kí văn thư 831 đặt quần đảo Hoàng Sa trực thuộc hành chánh vào chính quyền Yahien, Hải Nam. Triều đình Việt Nam hồi ấy dù chỉ còn hư vị, nhưng binh bộ trọng thư Thân Trọng Huề đã lên tiếng phản đối năm 1925…”

Dư luận báo chí đã khiến chính quyền Pháp phải hành động và do đó mới có sự việc Pháp tổ chức chiếm hữu Trường Sa (Spratly) vào năm 1933 và thiết lập các cơ sở hải đăng, đài khí tượng, trại lính, để lính Việt Nam và Pháp bảo vệ Hoàng Sa (Paracels).

Poster phản đối cuộc xâm lăng của Trung Cộng

Học giả Hoàng Xuân Hãn qua bài viết Quần đảo Hoàng Sa đã đưa ra những chứng liệu lịch sử trong quyển Đại Nam Thực Lục Tiền  Biên, qua đó xác định chính quyền nhà Thanh (Trung Hoa) đã đối xử tử tế đối với đội Hoàng Sa vào năm 1754 khi bị bão, trôi dạt vào Quỳnh Châu (Hải Nam) mà không hề phản đối về việc hành sử chủ quyền này tại Hoàng Sa. Tiếp đó, cuốn Đại Nam Thực Lục Chính Biên cho biết vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh trong đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển vào năm 1815.

Học giả họ Hoàng còn đưa ra tài liệu trong bài Geography of the Cochinchinese Empique  đăng trong tập san Journal of Geographical Society of London (năm 1849) xác định tọa  độ địa dư của Hoàng Sa và cho biết: “Chính phủ Annam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đã đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này [Hoàng Sa] để thu thuế mà mọi người tới đây đều phải trả và để bảo trợ người đánh cá bản quốc”.

Khải đồng thuyết ước là tập sách giáo khoa viết bằng chữ Hán và chữ Nôm ghi chép về thiên văn, địa lý, điền thổ, nhân đinh, tên các xã, tổng, huyện, phủ, tỉnh thành, những nhân vật lịch sử, quốc hiệu, hình thế núi sông và bản đồ toàn quốc của Việt Nam. Tập sách này do Kim Giang Phạm Phục Trai, thi Ân khoa năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) biên soạn, Tiến sĩ Ngô Thế Vinh, người Bái Dương, huyện Nam Chân nhuận sắc.

Khải đồng thuyết ước được biên soạn xong vào cuối mùa xuân năm Tự Đức Quý Sửu (1853) và được in lần đầu tiên vào mùa hạ năm Tự Đức Tân Tỵ (1881). Sách chia làm 3 tập: Tý, Sửu, Dần. Tập Tý nói về thiên văn gồm tứ thời, ngũ hành, bát quái và các vì sao. Tập Sửu nói về địa hình sông núi, biển đảo cùng với sự thống kê về ruộng đất, nhân đinh trong các địa phương cả nước và có bản quốc địa đồ trong đó bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một luận cứ lịch sử bổ xung là những quần đảo Hoàng Sa, Côn Lôn (có cả Trường Sa) nguyên là địa bàn ngư nghiệp của người Chiêm mà người Việt là kẻ thừa kế hay thừa hưởng đương nhiên khi lãnh thổ nước Chiêm sáp nhập vào dư đồ nước Việt.

Sách giáo khoa “Khải đồng thuyết ước” in năm 1881

Trong bài viết Những sử liệu chữ Hán minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua nhiều thế kỷ của Hãn Nguyên, tác giả dẫn chứng 11 sử liệu trong đó có Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (giữa thế kỉ 17), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Dư Địa Chí (1821), Hoàng Việt  Địa Dư Chí (1833), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1844),  Đại Nam Thực Lực Chính Biên (1848), Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (1851), Việt Sử Cương Giám Khảo Lược (1876), Đại Nam Nhất Thống Chí Quyển (1910), Quốc Triều Chính Biên Tất Yếu (1925) và một tài liệu Trung Hoa Hải Quốc Văn Kiến Lục (1744). Những tài liệu trên cung cấp cho chúng ta những chứng cứ hiển nhiên về việc hành sử liên tục chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa qua nhiều thế kỷ, ít ra cũng từ thế kỷ 15 trở đi.

Bản đồ “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, triều Minh Mạng (1820-1841) 
có ghi rõ tên Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam

Những sử liệu Tây Phương minh chứng chủ quyền của Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa từ thời Pháp thuộc đến nay là tựa đề bài viết của tác giả Thái Văn Kiểm. Ông nghiên cứu các sử liệu tây phương, dẫn chứng các vụ đắm tàu thời chúa Nguyễn Thúc Nguyên (1634) và Nguyễn Phúc Lan (1636). Bài viết có đoạn nói về vụ đắm tàu:

“Căn cứ vào Ký sự Batavia (Journal de Batavia) của Công ty Hòa Lan Đông Ấn (Conpagnie hollandaise des Indes orientales), ấn hành trong những năm 1631-1634-1636, chúng ta được biết một sự kiện liên hệ tới quần đảo Hoàng Sa và Xứ Đàng Trong như sau:

Ngày 20-7-1634, dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), ba chiếc tàu Hòa Lan tên Veehuizen, Schagen và Grootebroek, từ Batavia (Nam Dương) đến Touron cùng nhổ neo đi Formose (Đài Loan).

Ngày 21 thì gặp bão ngoài khơi, nên lạc nhau. Chiếc tầu Veen-huizen tới Formose ngày 2 tháng 8, chiếc Schagen ngày 10 cùng tháng. Riêng chiếc Grootebroek bị đắm gần quần đảo Paracels [Hoàng Sa], ngang với bắc vĩ tuyến 17… Trong số hàng hóa trị giá 153.690 florins, thủy thủ chỉ cứu được một số trị giá 82.995 florins, kỳ dư bị chìm đắm, kể cả chiếc tầu và 9 người bị mất tích. 

Số hàng hóa cứu  được, họ cất dấu nơi an toàn tại đảo Paracels. Thuyền trưởng Huijich Jansen và 12 thủy thủ đi bằng thuyền nhỏ vào duyên hải xứ Đàng Trong. Họ hy vọng sẽ tìm được một thuyền lớn để ra cứu 50 thủy thủ còn ở lại trên đảo. Thuyền trưởng đem theo 5 thùng bạc và 3.570 réaux đựng trong 17 bao. Khi họ vào tới đất liền, họ không được đối đãi như ý muốn. Tất cả bạc và tiền bị tịch thâu bởi viên chức đặc trách hải môn và thương thuyền, mà người Hòa Lan gọi là Ongangmij.

Sau đó, họ được phép trở lại Paracels trên một chiếc tầu Nhật Bản tên Kiko, mà họ mua đứt, để đón 50 thủy thủ còn nơi đảo và lấy 4 thùng bạc còn lại. Tất cả đều được 3 chiếc tàu khác tên là Bommel, Goa và Zeeburg (cũng bị bão mà vào núp miền duyên hải xứ Đàng Trong) chở về Batavia. Tại đây viên thuyền trưởng Jansen làm báo trình về việc thuyền Grootebroek bị đắm tại Paracels và sự tịch thâu 23.580 réaux bởi nhà chức trách xứ Đàng Trong.

Hai năm sau, dưới thời Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), ngày 6 tháng 3 năm 1636, hai chiếc tầu Hòa Lan khác tới Touron. Thương gia Abraham Duijeker tiến về Faifo [Hội An] để gặp quan Trấn thủ; sau đó ông ta đi Thuận Hóa (Senoa) yết kiến Chúa Thượng, để xin giao thương, đặt thương điếm và đòi số tiền 23.580 réaux đã bị tịch thâu năm kia.

Thượng Vương tiếp đón Duijeker rất trọng hậu nhưng Ngài truyền rằng: “Những việc khiếu nại đó đã xảy ra dưới thời Vua cha, nay Chúa không hề hay biết; vả lại viên chức thuế quan Ongangmij (?) đã bị cách chức, tịch thu gia sản (vì tội đã ăn hối lộ tới 340.000 lượng bạc trong thời kỳ tại chức), đã bị xử trảm và phanh thây rồi”.

Chúa Thượng xét rằng Ngài đã xử sự công minh lắm; nay chớ nhắc lại làm chi. Ngài cũng cam đoan từ nay pháp luật rất nghiêm minh và sẽ không bao giờ xảy ra những việc đáng tiếc như vậy nữa. Để bù vào sự thiệt thòi đó, Chúa Thượng chấp thuận cho người Hòa Lan được tự do giao thương với xứ Đàng Trong, và miễn cho họ sắc thuế neo bến và các tặng phẩm…

Ngoài ra, theo tài liệu của Chaigneau, Taberd xác định năm 1816, vua Gia Long long trọng cắm cờ và chính thức chiếm hữu Hoàng Sa. Hội nghị San Francisco 1951 công nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đồng thời cũng trình bày các tài liệu về sự hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa từ thời Pháp thuộc đến nay.

Tại hội nghị, ngày 7/9/1951, Thủ Tướng Chính Phủ, Trưởng Phái đoàn VNCH, đã long trọng tuyên bố như sau: “Chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ Việt Nam”. Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco long trọng ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn phó hội, không có một phái đoàn nào lên tiếng phản đối.

Bản đồ đường qua xứ Quảng Nam đời Lê, theo Thiên Nam lộ đồ vẽ lại năm 1741
(bản sao chép của Dumoutier, có chữ quốc ngữ).Bãi cát vàng trên bản đồ tức là Hoàng Sa.

Tập san Sử Địa cũng đăng 2 bài báo cáo khảo sát khoa học tại Hoàng Sa và Trường Sa dưới thời VNCH: Phúc trình về công tác nghiên cứu phốt phát cuối cùng tại quần đảo Hoàng Sa của phái đoàn Nhật-Việt vào mùa thu năm 1973 của Kỹ sư Trần Hữu Châu và Phúc trình cuộc thám sát hòn Nam Yít thuộc quần đảo Trường Sa vào mùa thu năm 1973 của Trịnh Tuấn Anh.

Cuộc khảo sát về trữ lượng phốt phát trên đảo Hoàng Sa do Bộ Kế hoạch và Phát triển Quốc gia VNCH tổ chức từ 11/08/1973  đến 23/08/1973 với sự trợ giúp kỹ thuật của các kỹ sư hầm mỏ thuộc công ty Marubeni Corporation, Nhật Bản. Đoàn đã đi khảo sát 6 hòn đảo gồm: Cam Tuyền (Robert), Quang Hà Đông (Duncan), Quang Hà Tây (Palm Island), Duy Mộng (Drummond), Hoàng Sa (Pattle) và Vĩnh Lạc (Money).

Theo các chuyên viên Nhật Bản, tổng kết về số lượng cát chứa phốt phát tại 6 đảo đã khảo sát là  80.000 tấn trong lớp cát và 2.700.000 tấn trong lớp đá và san hô. Việc có nên khai thác số lượng này hay không, còn tùy thuộc vào độ bách phân P2.5 chứa trong các mẫu đất và đá được các chuyên viên Nhật đem về thử.

Đảo Hoàng Sa trước đây đã được Công ty Phân bón Việt Nam do ông Bùi Kiến Thành khai thác phốt phát trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1964. Công ty này đã chở vào đất liền vào khoảng 100.000 tấn. Hiện trên đảo còn một số lượng phốt phát nữa, khoảng 4.000 tấn, đã được Công ty chất đống dọc theo đường từ cầu tàu vào trung tâm đảo nhưng chưa kịp chở vào đất liền.

Theo ông Trịnh Quang Nghiêm, Trưởng ty Khí tượng Hoàng Sa, người đã theo dõi việc khai thác phốt phát của Công ty Phân bón Việt Nam thì những bao phốt phát mà Công Ty phân phối tại thị trường nội địa không phải lấy từ lớp cát mặt mà lấy từ lớp đá ở vòng đai san hô chung quanh đảo và ngay tại đảo. Những tảng đá này sau đó được nghiền nhỏ, vô bao tại đảo Hoàng Sa và di chuyển về đất liền.

Trên bản đồ này, lãnh thổ Trung Quốc không có Hoàng Sa và Trường Sa

Cuộc khảo sát thứ nhì được thực hiện trên hòn Nam Yít thuộc quần đảo Trường Sa và tác giả bài viết là Trịnh Tuấn Anh, chuyên viên thổ nhưỡng học. Đây là cuộc khảo sát chuyên môn về đất đai của sở Địa học, Viện Khảo cứu Nông nghiệp và Điền Địa tổ chức vào tháng 8/1973.

Về diện tích, hòn Nam Yít có chiều dài khoảng 700m và chiều ngang độ 250m, nơi cao nhất là 2m70, chung quanh hòn có vòng đai san hô bao bọc. Ở đây nước biển rất trong và có màu xanh nhạt khác biệt hẳn với màu xanh thẫm của đại dương, nhờ đó giới hạn của vòng đai san hô hiện ra thật rõ rệt. Vì kích thước quá nhỏ nên nhìn từ xa hòn trông giống như một dải đất mỏng màu trắng bạc nổi lúp xúp giữa đại dương mênh mông.

Nam Yít là một trong những ám tiêu san hô tiêu biểu trong vùng Thái Bình Dương. Trong quá trình địa chất, hòn Nam Yít được thành lập do sự nguội đặc của dung nham huyền vũ phún xuất ngầm dưới mặt nước, về sau san hô bám vào đó và tăng trưởng mau lẹ nhờ vào các điều kiện thích hợp cho môi trường sinh sống của chúng như chiều sâu của mực nước biển, nhiệt độ, lượng oxi…

Vì là một đảo san hô tiêu biểu nên Nam Yít có đủ loại san hô với nhiều màu sắc sặc sỡ rất hữu ích cho công cuộc khảo cứu về san hô của các nhà động vật học trong tương lai. Với đại dương bao quanh, tiềm năng về ngư nghiệp ở đây quả thật lớn lao, nhưng vì xa đất liền nên không có thị trường tiêu thụ. Trên hòn còn có muỗi và chuột kích thước cỡ chuột cống, về đêm có nhiều con Vít thật to bò lên đụn cát đẻ trứng.

Tác giả cho biết những dữ kiện chính xác về khí hậu trên hòn Nam Yít chưa đầy đủ nhưng theo lời của các sĩ quan hải quân cho biết quần đảo Trường Sa còn được các nhà hàng hải đặt tên là Quần đảo Bão tố vì ở đây thường là trung tâm phát sinh bão. Vào mùa khô trời rất nóng bức do đó rất dễ bị say nắng. Có hai mùa gió rõ rệt đó là gió Tây Nam thổi với tốc độ khoảng 30 gút/giờ và gió Đông Bắc có vận tốc khoảng 80 gút/giờ.

Ngoài ra vì là trung tâm phát sinh bão tố nên thời tiết thường thay đổi một cách nhanh chóng và bất thường. Tác giả kể lại, trong một đêm ở lại trên Nam Yít trời đang sáng trăng bỗng chừng 15 phút sau một cơn lốc kéo đến khiến trời tối sầm lại và mưa như trút nước. Chuyên viên Trịnh Tuấn Anh cho biết:

“Các kết quả phân chất đất và nhận xét tại chỗ cho thấy là đất đai trên hòn có khả năng canh tác giới hạn vì diện tích đất canh tác được quá nhỏ, khả năng giữ nước kém, độ mặn trong đất khá cao nhất là thiếu nước ngọt; đây là một cưỡng chế quan trọng đối với việc canh tác nhất là vào mùa khô.

Để có nước dùng chúng ta chỉ có thể xây hồ hứng nước mưa nhờ vào hệ thống máng xối chảy từ các mái nhà, ở đây phương pháp đào giếng không có kết quả vì lớp cát trên mặt đất và lớp đá vôi san hô không có khả năng giữ nước, sau mỗi trận mưa, nước sẽ ngấm dần ra biển”.

Kết quả của cuộc thám sát tại chỗ cho thấy là đất đai trên hòn Nam Yít không đủ khả năng nuôi sống vài chục người nếu chỉ tự túc canh tác. Tuy nhiên, ngoài các thực phẩm khô được tiếp liệu có định kì, các quân nhân đồn trú có thể trồng trọt thêm một số cây ăn trái và hoa màu để có thêm sinh tố. Đồng thời kiếm thêm một số thực phẩm tươi tại chỗ bằng cách câu cá, bắt vít và chim để dùng với một mức độ vừa phải để duy trì sự quân bình trong thiên nhiên, vì sự khai thác quá độ sẽ làm các loài chim biển sang di trú ở một hoang đảo khác, như thế làm mất đi một phần thực phẩm tươi quý giá.

Tác giả kết luận: “Chúng tôi nhận thấy đời sống của các quân nhân đồn trú trên hòn Nam Yít đòi hỏi nơi họ ý thức tự lực cánh sinh mạnh mẽ như Lỗ Bình Sơn [*] hơn là chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn thực phẩm tiếp tế từ đất liền”.

Thị trấn Trường Sa trong huyện đảo Trường Sa, thuộc tỉnh Khánh Hòa.


***

Chú thích:

[*]: Lỗ Bình Sơn (Robinson Crusoe) là nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel Defoe (1660-1731) có tựa đề The life and strange surprizing adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner (Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ thú của Robinson Crusoe, người thủy thủ xứ York).

Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong hơn 250 tác phẩm truyện dài và truyện ngắn của Daniel Defoe, xuất bản lần đầu tiên năm 1719 khi tác giả đã gần sáu mươi tuổi. Sự thành công của nó thúc đẩy Defoe viết thêm nhiều “hậu truyện” cho cuốn này và rất nhiều truyện phiêu lưu kỳ thú khác của các tên cướp biển, các lãng tử và các cô gái giang hồ.
 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire